1. Khái niệm Bản đồ số địa chính
Bản đồ số địa chính là
sản phẩm bản đồ địa chính được số hóa, thiết kế, biên tập, lưu trữ và hiển thị
trong hệ thống máy tính và các thiết bị điện tử. Nó có nội dung thông tin tương
tự như bản đồ địa chính vẽ trên giấy song các thông tin này được lưu trữ dưới
dạng số.
Bản đồ số địa chính
được tạo ra theo hai phương pháp cơ bản, đó là: số hóa các bản đồ địa chính đã
vẽ trên giấy hoặc biên tập từ số liệu đo đạc trên thực địa và số liệu đo ảnh
hàng không.
Để thành lập bản đồ số
địa chính cần nghiên cứu các chuẩn về bản đồ số và tổ chức dữ liệu. Đó chính là
những quy định nhằm đảm bảo tính chặt chẽ, tính thống nhất trong mô tả, lưu trữ và hiển thị nội dung thông
tin.
2. Chuẩn hệ quy
chiếu.
Hệ quy chiếu của bản đồ
số địa chính đồng nhất với hệ quy chiếu của bản đồ địa chính thông thường cả về
mặt quy chiếu độ cao, elipxoid thực dụng và lưới chiếu tọa độ vuông góc phẳng.
Khi trình bày bản đồ
địa chính dạng số, mọi đối tượng bản đồ đều được thể hiện trong cùng một hệ quy
chiếu không gian. Ngoài ra còn sử dụng thêm một số yếu tố tham chiếu khác để
đảm bảo tính duy nhất khi nhận dạng, tìm kiếm các yếu tố trong phạm vi tờ bản
đồ hoặc trong khu vực đo vẽ.
Các phần mềm thành lập
bản đồ chuyên dụng đều đảm bảo có thể tính toán chuyển đổi giữa các hệ tọa độ
trắc địa thông dụng.
3. Mô hình dữ liệu và
khuôn dạng dữ liệu đồ họa.
Mô hình dữ liệu không
gian là một mô hình toán học mô tả cách biểu diễn các đối tượng bản đồ dạng số. Bản đồ địa
chính sử dụng mô hình dữ liệu không gian vector.
Khuôn dạng dữ liệu bản
đồ địa chính cần tuân theo dạng chuẩn quy định. Việc lựa chọn khuôn dạng dữ
liệu cần đảm bảo một số yêu cầu sau:
-
Khuôn dạng dữ liệu được công bố và đang
được sử dụng rộng rãi.
-
Khuôn dạng dữ liệu có thể biểu diễn
thuận lợi các đối tượng đa dạng của bản đồ địa chính.
-
Khuôn dạng dữ liệu có khả năng chuyển
đổi để sử dụng trong các phần mềm bản đồ thông dụng khác nhau và làm cơ sở cho
các hệ thống thông tin địa lý và hệ thống thông tin đất đai.
Trong thực tế công tác
trắc địa bản đồ ở Việt Nam hiện nay có hai khuôn dạng dữ liệu đã và đang dùng
để thành lập bản đồ địa chính dạng số, đó là: File .DWG, File .DXF và File
.DGN. Các dạng Format này đang được nhiều nước trên thế giới sử dụng.
Theo quy định trong quy
phạm thành lập bản đồ địa chính ban hành
năm 2000 thì dù sử dụng khuôn dạng dữ liệu nào cũng phải đảm bảo chuyển đổi về
File .DGN để lưu trữ, quản lý và khai thác.
4. Phân lớp nội dung bản
đồ địa chính.
Các thông tin không
gian trên bản đồ địa chính khá phong phú. Các đối tượng bản đồ được thể hiện
qua các kiểu đặc trưng như điểm, đường, đường gấp khúc và vùng. Các đối tượng
được tổ chức thành nhiều lớp thông tin, mỗi lớp thể hiện một loại đối tượng bản
đồ. Mỗi lớp thông tin sử dụng một kiểu điểm, một kiểu đường, một kiểu chữ và
một màu nhất định để hiển thị.
Các lớp thông tin được
định vị trong cùng một hệ quy chiếu nên khi chồng xếp các lớp thông tin lên
nhau, chúng ta được cơ sở dữ liệu không gian có hình ảnh giống như một tờ bản
đồ hoàn chỉnh.
Việc
phân lớp thông tin bản đồ địa chính phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
-
Phân lớp thông tin dựa trên cơ sở phân
loại đối tượng bản đồ.
-
Các đối tượng trong một lớp thông tin
thuộc một loại đối tượng hình học như điểm, đường hoặc vùng.
-
Yếu tố cơ bản của thông tin bản đồ là
loại đối tượng (object). Các đối tượng có cùng một số đặc tính được gộp lại
thành lớp đối tượng (object class). Các lớp đối tượng được gộp lại thành nhóm
đối tượng gán mã duy nhất. Đảm bảo đánh số theo thứ tự liên tục đối với các
loại trong lớp, các lớp trong nhóm.
-
Các loại đối tượng, các lớp đối tượng,
các nhóm đối tượng được đặt tên theo kiểu viết tắt sao cho dễ dàng nhận biết
loại thông tin.
Trong cơ sở dữ liệu
không gian bản đồ địa chính có 10 nhóm đối tượng:
1.
Điểm khống chế trắc địa gồm 2 lớp là
khống chế nhà nước và không chế đo vẽ với 7 loại đối tượng.
2.
Thửa đất gồm 1 lớp với 4 loại đối tượng
như: đường ranh giới thửa đất; điểm ghi nhãn thửa gồm số hiệu thửa, loại đất,
diện tích; ghi chú độ rộng; ghi chú thửa.
3.
Nhà gồm 1 lớp và 3 loại đối tượng.
4.
Điểm quan trọng có tính chất kinh tế,
văn hóa, xã hội gồm 3 loại đối tượng.
5.
Đường giao thông gồm 2 lớp là giao thông
đường sắt và giao thông đường bộ với 7 loại đối tượng.
6.
Thủy hệ gồm 2 lớp đối tượng với 9 loại
đối tượng.
7.
Địa giới gồm 4 lớp là biên giới quốc
gia, địa giới tỉnh, địa giới huyện và địa giới xã với 15 loại đối tượng.
8.
Quy hoạch gồm 1 lớp và 2 loại đối tượng.
9.
Phân vùng đặc biệt gồm 1 lớp và 3 loại
đối tượng.
10. Cơ
sở hạ tầng gồm 1 lớp và 4 loại đối tượng.
Hãy like nếu bài viết có ích →
Kết bạn với gisgpsrs trên Facebook
để nhận bài viết mới nóng hổi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét